...... ...  

 

 

Tình Thương Yêu

 

Hòa Thượng K. Sri Dhammananda

Minh Nguyên dịch (Trích dịch từ What Buddhists believe)

 

Xã hội hiện tại không chỉ có vật chất dồi dào, mà còn có cả những người trí thức tiến bộ, những nhà văn kiệt xuất, những diễn giả tài năng, những triết gia, những chuyên gia tâm lý, những nhà khoa học, những bậc chân tu làm cố vấn, những nhà thơ tài hoa và những nhà lãnh đạo rất tài ba.

Mặc dù vậy, thế giới hiện tại vẫn chưa có sự thanh bình và an vui thực sự. Một vài thứ vẫn bị thiếu thốn, như là lòng thương yêu và sự thiện chí ở trong tâm mỗi người.

Vật chất do con người tạo ra, tự thân chúng không thể đem đến hạnh phúc và thanh bình miên viễn cho con người. Sự thanh bình phải được tạo lập ngay chính trong tâm hồn của mình trước khi có thể đem thanh bình đến cho người khác và cho toàn xã hội. Để đạt được sự thanh bình thì cách thiết thực nhất là thực tập theo những lời khuyên của các vị đạo sư.

Để rèn luyện lòng thương yêu, trước hết chúng ta phải rèn luyện những nguyên tắc cao quý của sự bất bạo động và phải luôn sẵn sàng chống lại thói ích kỷ, đồng thời chỉ cho người khác nhận thấy được con đường đúng đắn mà chúng ta đang theo. Sự đấu tranh ở đây không có nghĩa là đấu tranh với cơ thể vật lý này, bởi vì sự đồi bại của một con người không phải ở nơi thân thể mà là ở trong tâm hồn. Bất bạo động là một vũ khí lợi hại hơn nhiều so với sự trả đũa bằng bạo lực trong việc đấu tranh chống lại cái ác. Vì bản chất của sự trả đũa là làm cho tính đồi bại nặng thêm.

Để có được tình thương yêu, mỗi chúng ta cần phải từ bỏ thói ích kỷ. Phần lớn tình thương yêu của con người là đều có xu hướng vị kỷ. Người vợ thương yêu chồng, nhưng thật ra ẩn chứa bên trong tình thương ấy là tình cảm của người vợ đối với chính bản thân mình. Cha mẹ thương yêu con cái cũng vì thương yêu bản thân họ. Con người tôn sùng thượng đế cũng vì lo cho bản thân. Chúng ta thương yêu người khác vì chúng ta muốn được người khác thương yêu mình.

Con người nên tập thương yêu với tình thương không vị kỷ để duy trì sự bình an đích thực và để tự cứu lấy chính mình. Việc tự tử làm hủy hoại thân thể, cũng thế, thói ích kỷ sẽ làm trở ngại sự tiến bộ tâm linh. Tình thương yêu theo đạo Phật không phải là cảm xúc đơn thuần mà cũng không phải là ích kỷ. Đấy là tình thương yêu được biểu lộ từ nội tâm thanh tịnh sau khi đã diệt trừ hết những căm hờn, ghen ghét, tàn bạo, thù địch và oán hận ở trong lòng. Theo Đức Phật, tâm từ, hay tình thương yêu là phương pháp hiệu quả nhất để duy trì sự an tịnh trong tâm hồn và để gột rửa những tâm hồn đã bị uế nhiễm.

Thương yêu là từ được sử dụng để diễn tả một phạm vi rất rộng của những xúc cảm trong đời sống con người. Thật ra, việc nhấn mạnh đến bản tính ham muốn tình dục đối với một người khác giới đã hạ thấp giá trị của những xúc cảm trong mối quan hệ thân thiện đối với người khác. Theo đạo Phật, có nhiều loại xúc cảm. Tất cả những thứ đó được gọi bằng một danh từ chung là thương yêu. Trước hết ấy là tình thương vị kỷ và tình thương không vị kỷ. Một người có tình thương vị kỷ thì người đó chỉ quan tâm đến việc người khác làm cho mình hài lòng như thế nào, mà lại không hề quan tâm đến những mong muốn cũng như những cảm giác của người kia. Sự ghen ghét luôn là dấu hiệu của tình thương vị kỷ. Tình thương không vị kỷ là tình thương mà một người dành cho người khác bởi những điều tốt đẹp nơi người ấy - cha mẹ rất mực thương yêu con. Con người thường cảm thấy có sự pha trộn giữa tình thương vị kỷ và tình thương không vị kỷ trong các mối quan hệ. Chẳng hạn, trong khi cha mẹ hy sinh rất nhiều cho con cái, thì họ cũng thường hy vọng một vài thứ gì đó được con cái đáp trả lại.

Một thứ tình thương khác, trái với mối quan hệ thân thiết đã nêu trên, ấy là tình huynh đệ và tình bạn bè. Trong một chừng mực nào đó, thứ tình cảm này cũng được xem như là tình thương vị kỷ, bởi vì nó bị giới hạn trong một số người riêng biệt và không bao trùm hết tất cả mọi người. Ở một phạm trù khác, chúng ta có tình dục, ở đấy, những cặp tình nhân quấn quýt với nhau bởi sự lôi cuốn của thể xác. Điều này được những trò giải trí hiện đại khai thác triệt để và nó có thể ảnh hưởng đến bất cứ điều gì, từ điều đơn giản là những sự mê đắm của thanh thiếu niên, đến điều phức tạp nhất trong mối quan hệ giữa những người trưởng thành với nhau.

Tình thương yêu rộng lớn hay là tâm từ, là thứ tình cảm thuộc cấp độ cao hơn so với những tình cảm ở trên. Tình thương yêu vô bờ bến này là đức hạnh cao quý mà những bậc giác ngộ đã thể hiện. Chẳng hạn như Đức Phật Thích Ca, Ngài đã quyết chí từ bỏ ngôi vua, từ giã gia đình và gạt bỏ những thú vui thường tình để lên đường tìm chân lý nhằm cứu chúng sanh thoát khỏi khổ đau. Để đạt được sự giác ngộ, Ngài đã phải chiến đấu với vô số nội ma ngoại chướng, phải vật lộn với muôn ngàn khó khăn, gian khổ. Nếu là một chúng sanh bình thường thì có lẽ đã bị quỵ ngã, nhưng Đức Phật thì không. Chính vì lẽ đó mà Đức Phật được tôn xưng là bậc Đại từ bi. Tình thương yêu bao la của Đức Phật không chỉ dành cho loài người mà còn trải rộng đến muôn loài chúng sanh. Đấy không phải là một thứ xúc cảm hay là tình thương vị kỷ, mà là tình thương không biên giới, không phân biệt. Không giống với những thứ tình cảm khác, tình thương rộng lớn này sẽ không bao giờ bị chấm dứt bởi nỗi thất vọng hay là sự chán ngán, vì nó không hề mong cầu sự đền đáp. Nó làm cho con người nhiều niềm hạnh phúc hơn và hài lòng hơn. Người nào tu tập tâm từ bi cũng sẽ thực tập hỷ và xả, và họ sẽ đạt đến trạng thái siêu việt.

Trong sách Con đường cổ xưa của Đức Phật, ngài Piyadassi cho rằng: Tình thương yêu là sức mạnh tích cực. Mỗi một hành động của người có tình thương yêu là hành động với tâm vô nhiễm nhằm mục đích giúp đỡ, hỗ trợ, động viên để làm cho cuộc sống của mọi người dễ chịu hơn, bình lặng hơn và làm chuyển hóa những nỗi lo âu đang xâm lấn tâm hồn họ và có thể tận hưởng niềm hạnh phúc miên viễn.

Cách thức để nuôi dưỡng tình thương yêu, để tình thương yêu được lớn dần lên là thông qua việc tư duy sâu sắc về những điều xấu xa của sự ghen ghét, những ích lợi của sự không ghen ghét và thông qua sự tư duy về thực tại, về nghiệp. Quả thực không ai ưa thích sự căm hờn. Sự căm hờn là một hình thức xấu của tình cảm, nó làm cho chúng ta càng ngày càng lún sâu vào nơi tăm tối, làm chúng ta thiếu đi sự sáng suốt. Sự căm hờn trói buộc con người, thương yêu làm cho con người được thanh thản. Căm hờn đưa đến dằn vặt, thương yêu đem lại bình yên. Căm hờn làm mất bình tĩnh, thương yêu làm cho con người được bình tĩnh. Căm hờn dẫn đến chia rẽ, thương yêu đem lại sự hòa hợp. Căm hờn là thô bạo, thương yêu là dịu dàng. Căm hờn là chống đối, thương yêu thì giúp đỡ. Lòng căm hờn có những ảnh hưởng xấu, còn tình thương yêu đem đến nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng ta hãy cố gắng nuôi dưỡng cho tình thương yêu trong ta thêm lớn mạnh.

Trong kinh Từ Bi, Đức Phật đã giải thích bản chất của tình thương yêu trong đạo Phật là "Như người mẹ bảo vệ đứa con duy nhất của mình trong lúc nguy kịch nhất của cuộc đời. Tuy nhiên, hãy để cho cậu ta tu tập tâm thương yêu vô bờ bến đối với tất cả chúng sanh, hãy để những ý tưởng của tình thương yêu không biên giới nơi cậu ta được tỏa khắp cả thế giới, phía trên, phía dưới, và cả bốn phương, không một chút ngăn ngại, vắng bặt sự căm hờn và tuyệt nhiên không có sự thù địch".

 

Trở về trang bài vở

 

 

 

Trở về trang nhà